6 tháng đầu năm, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tăng hơn 15%
2025-07-03 10:15:00.0
Toàn cảnh họp báo Bộ NNMT hôm nay (3/7) - Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Đây là thông tin được Bộ Nông nghiệp Môi trường (NNMT) công bố trong buổi họp báo hôm nay (3/7).
Theo đó, trong 6 tháng đầu năm 2025, ngành nông lâm thủy sản Việt Nam ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực, với sản xuất phát triển ổn định và xuất khẩu đạt mức tăng trưởng ấn tượng. Đây là kết quả của sự nỗ lực trong quản lý, ứng dụng công nghệ và thích ứng với biến động thị trường, góp phần quan trọng vào kinh tế quốc gia.
Sản xuất nông nghiệp trong 6 tháng năm 2025 tiếp tục duy trì đà tăng trưởng ổn định. Trong lĩnh vực trồng trọt, diện tích gieo cấy lúa đạt khoảng 5,2 triệu hecta, tăng 0,03% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích lúa đã thu hoạch ước đạt 3,33 triệu ha, tăng 0,5%, với sản lượng đạt trên 22,7 triệu tấn, tương đương 101,7% so với cùng kỳ 2024. Các cây ăn quả chủ lực như thanh long, xoài và cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su cũng ghi nhận sự gia tăng cả về diện tích và sản lượng, phản ánh xu hướng đa dạng hóa sản xuất.
Ngành chăn nuôi phục hồi mạnh mẽ nhờ dịch bệnh được kiểm soát tốt. Đàn lợn tăng 3,8%, đạt khoảng 29,5 triệu con, trong khi đàn gia cầm tăng 4%, lên hơn 600 triệu con. Giá bán thịt gia súc, gia cầm duy trì ở mức cao, tạo điều kiện cho người chăn nuôi tái đầu tư, nâng cao chất lượng đàn. Ngược lại, tổng số trâu giảm 3,4% và đàn bò giảm 0,6%, cho thấy sự chuyển dịch sang các loại vật nuôi có giá trị kinh tế cao hơn.
Lâm nghiệp cũng có bước tiến đáng kể, với diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 153,5 nghìn ha, tăng 18,9% và số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 48,6 triệu cây, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm 2024. Sản lượng gỗ khai thác đạt 11,2 triệu m³, tăng 9%, hỗ trợ mạnh mẽ cho ngành công nghiệp chế biến.
Sản xuất thủy sản tiếp tục là điểm sáng với tổng sản lượng ước đạt 4.550,9 nghìn tấn, tăng 3,1% so với cùng kỳ. Trong đó, cá đạt 3.281,8 nghìn tấn (tăng 2,9%), tôm đạt 605,5 nghìn tấn (tăng 5,6%). Hoạt động nuôi trồng thủy sản mở rộng sang các loài có giá trị cao như tôm sú, cá tra và vẹm xanh, phản ánh chiến lược nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Xuất khẩu phát triển mạnh mẽ
Kim ngạch xuất khẩu NLTS tháng 6/2025 ước đạt 5,93 tỷ USD, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm 2024, đưa tổng kim ngạch 6 tháng đầu năm đạt 33,84 tỷ USD, tăng 15,5%.
Các nhóm hàng chủ lực đều ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể: Nông sản đạt 18,46 tỷ USD (tăng 17,8%), thủy sản đạt 5,16 tỷ USD (tăng 16,9%), lâm sản đạt 8,82 tỷ USD (tăng 9,3%) và sản phẩm chăn nuôi đạt 264,4 triệu USD (tăng 10,1%). Đáng chú ý, giá trị xuất khẩu đầu vào sản xuất tăng 23,6% lên 1,13 tỷ USD, trong khi muối tăng mạnh gấp 2,4 lần, đạt 5,7 triệu USD.
Về thị trường, châu Á dẫn đầu với 42% thị phần, tiếp theo là châu Mỹ (23,5%) và châu Âu (15,6%). So với cùng kỳ năm trước, xuất khẩu sang châu Âu tăng 46,3%, châu Phi tăng 99,5% và châu Mỹ tăng 18,7%. Trong đó, Hoa Kỳ (21,1% thị phần), Trung Quốc (17,6%) và Nhật Bản (7,2%) là 3 thị trường lớn nhất. Giá trị xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng 16%, Nhật Bản tăng 25,5%, trong khi Trung Quốc giảm nhẹ 0,7% do cạnh tranh gia tăng.
Một số ngành hàng xuất khẩu nổi bật như: Ngành hàng cà phê, khối lượng xuất khẩu 6 tháng đạt 953,9 nghìn tấn, giá trị 5,45 tỷ USD, tăng lần lượt 5,3% và 67,5%. Giá bình quân đạt 5.708,3 USD/tấn, tăng 59,1%, nhờ nhu cầu cao từ Đức (tăng 2,2 lần), Italia (tăng 45,1%) và Tây Ban Nha (tăng 55,8%); Cao su khối lượng giảm 6,5% xuống 680,1 nghìn tấn, nhưng giá trị tăng 14,4% lên 1,27 tỷ USD, với giá bình quân 1.864,7 USD/tấn (tăng 22,4%). Trung Quốc chiếm 70% thị phần, tăng 34%, trong khi Ấn Độ giảm 32,3%.
Khối lượng gạo xuất khẩu tăng 7,6% lên 4,9 triệu tấn, nhưng giá trị giảm 12,2% xuống 2,54 tỷ USD, với giá bình quân 517,5 USD/tấn (giảm 18,4%). Philippin chiếm 43,4%, nhưng giá trị giảm 17,4%, trong khi Bờ Biển Ngà tăng 88,6%.
Giá trị xuất khẩu rau quả đạt 3,05 tỷ USD, giảm 8,4%, với Trung Quốc chiếm 48,2% nhưng giảm 35,1% do kiểm soát chặt chẽ chính ngạch.
Khối lượng hạt điều xuất khẩu giảm 2,7% xuống 346,8 nghìn tấn, nhưng giá trị tăng 20,4% lên 2,36 tỷ USD, với giá 6.805,4 USD/tấn (tăng 23,8%). Trung Quốc và Hoa Kỳ tăng lần lượt 41,2% và 0,1%.
Khối lượng hạt tiêu xuất khẩu cũng giảm 12,4% xuống 124,9 nghìn tấn, nhưng giá trị tăng 35,7% lên 859,6 triệu USD, với giá 6.881 USD/tấn (tăng 54,8%). Khối lượng xuất khẩu sắn tăng 68,6% lên 2,3 triệu tấn, giá trị tăng 12,8% lên 711,5 triệu USD, dù giá bình quân giảm 33,1% xuống 304,1 USD/tấn. Thủy sản xuất khẩu có giá trị đạt 5,16 tỷ USD, tăng 16,9%.
Kim ngạch nhập khẩu NLTS 6 tháng đạt 24,01 tỷ USD, tăng 15,1%, với nông sản chiếm 14,86 tỷ USD (tăng 16,4%), thủy sản 1,61 tỷ USD (tăng 33,4%) và chăn nuôi 2,11 tỷ USD (tăng 21,5%). Châu Á (31,4%) và châu Mỹ (24,7%) là hai nguồn nhập khẩu lớn, với Trung Quốc và Hoa Kỳ cùng chiếm 8,9%, tăng lần lượt 9,1% và 19%. Campuchia tăng 48%, đạt 8,6% thị phần.
Sự tăng trưởng ấn tượng trong xuất khẩu, đặc biệt sang châu Âu và châu Phi, cho thấy tiềm năng mở rộng thị trường. Tuy nhiên, sự phụ thuộc vào Trung Quốc và giảm giá trị ở một số mặt hàng như rau quả, chè đòi hỏi chiến lược đa dạng hóa. Việc kiểm soát dịch bệnh, nâng cao chất lượng sản phẩm và đầu tư vào công nghệ sẽ là chìa khóa để duy trì đà phát triển trong nửa cuối năm 2025.
baochinhphu.vn